KĨ THUẬT TRỒNG THANH LONG

Thứ Sáu, 20 tháng 4, 2012 0 nhận xét


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU……………………………………………………………….……. 2
GIỐNG TRỒNG……………………………………………………………....3
KỸ THUẬT TRỒNG THANH LONG………………………………………..3
BẢO VỆ THỰC VẬT……………………………………………………….....9
THU HỌACH, SƠ CHẾ VÀ NĂNG SUẤT………………………………....14
KẾT LUẬN………………………………………………………………….. 16
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………….17


MỞ ĐẦU

Thanh long (Hylocereus undotus, Haw.) thuộc họ xương rồng (Cactaceae), có nguồn gốc ở các vùng sa mạc thuộc Mêhicô và Colombia. Thanh long được du nhập vào nước ta từ lâu, tuy nhiên trái thanh long mới được quan tâm đến trong những năm gần đây. Từ khi thanh long được xuất khẩu ở dạng trái tươi sang các nước như Hong Kong, Nhật, Singapore, một số nước Châu Âu và được thị trường trong nước ưa chuộng, lợi nhuận thu được từ thanh long gia tăng, người nông dân bắt đầu đầu tư vào trồng thanh long với qui mô thương mại. Mặc dù, thanh long tương đối dễ trồng nhưng để đạt năng suất cao, trái đạt tiêu chuẩn xuất khẩu và đặc biệt cho trái nghịch vụ là điều mà không phải nhà vườn nào cũng nắm bắt và thực hiện được. Thanh long sinh trưởng, phát triển tốt ở nơi có cường độ ánh sáng cao và ánh sáng toàn phần, nếu bị che nắng thân cây sẽ ốm yếu và lâu cho quả.



GIỐNG TRỒNG
 Thanh long ở Việt Nam có ba giống: dạng quả tròn, quả dài, quả chôm chôm (quả nhỏ). Dạng quả tùy thuộc vào điều kiện sinh thái, nhất là chế độ ánh sáng và chế độ chăm sóc. Thanh long Việt Nam là loại thanh long ruột trắng, giống thuần do nhân vô tính bằng hom. Có hai giống ruột đỏ và ruột vàng, hiện đang trồng và theo dõi, sức sinh trưởng của hai giống mới nhập yếu hơn. Giống ruột đỏ và ruột vàng có quả nhỏ hơn và vỏ dày hơn.
http://www.binhthuantrade.com/images/2_7_2010_16_58_24.jpg
Một số gống Thanh Long được trồng phổ biến hiện nay ở Việt Nam
 


KỸ THUẬT TRỒNG THANH LONG
 1. Chuẩn bị đất:
-  Đất cao: hầu hết các chân đất đều được khai thác trồng thanh long như đất rừng, đất thổ cư, các khu vườn tạp. Phần lớn là đất xám bạc màu, nhiều cát. Có nơi khai thác tới sát chân núi. Công việc chuẩn bị đất tương đối đơn giản: cắm cọc, đào lỗ xuống trụ. Sau khi chôn xong trụ thì đào âm quanh trụ sâu độ 10 - 20 cm, đường kính 1,5 m, bón lót phân chuồng rồi phủ lớp đất mặt lên sau đó đặt hom.
- Đất thấp: trên các liếp đất phèn trồng dứa và mía trước đây tu bổ lại liếp, chiều cao mặt liếp so với mặt nước trong mương độ 40 cm, để đề phòng trong mùa mưa nước có thể dâng cao ngang mặt liếp nhất là ở những nơi thấp thì cần phải làm thêm mực trước khi xuống giống. Hễ bị ngập nước một vài tuần nhánh thanh long sẽ vàng, khi nước rút phải bón phân để cây phục hồi lại nhưng như vậy năng suất sẽ không cao
Đất cần phải được cày bừa kỹ trong mùa nắng, phơi đất, trừ cỏ dại. Cày bừa, làm cỏ không kỹ sau này chi phí trừ cỏ sẽ rất cao, cỏ nguy hiểm trên đất phèn là: cỏ tranh, cỏ ống, cỏ sâu rọm,...
2. Mật độ - khoảng cách và bố trí cây trồng:
 Trên liếp thanh long trồng xen dứa, hoặc các loại rau như ớt, dưa hấu, cà, xen các loại rau như rau muống, cải, ... dưới mương nuôi cá.
muot-xanh-vuon-thanh-long-o-binh-thuan-1Khong-su-dung-thuoc-co-hoat-chat-prochloraz-tren-thanh-long-123265-1Nên trồng thanh long ở mật độ từ 700 - 1.000 trụ/ha ứng với khoảng cách khoảng 3 m x 3 m. Thanh long là cây cần nhiều ánh nắng nên hễ trồng dầy thì quả nhỏ, bán không được giá.




Thanh Long được trồng trên cát và đất thịt
 
 


3. Chuẩn bị cây trụ
Cây thanh long cần bám vào cây trụ nên việc chọn lựa trụ và chuẩn bị là công việc người lập vườn thanh long cần quan tâm trước tiên, chi phí về cây trụ chiếm tỉ lệ cao nhất trong số tiền đầu tư ban đầu. Loại gỗ được chọn thường là loại gỗ tết, chịu được nắng mưa, lâu mục. Loại được dùng nhiều là: căm xe Xylia dolabriformis Benth, cẩm Liên Xylia xylocarter Taub, Cà Chắc Pentaeme siamensis Kurs, Sao đen Hopea odorata Roxb.
Cây trụ thường được chọn có đường kính trên 25 cm, dài 2,5 - 2,7 m, sau khi chôn còn cao khoảng 2m. Hiện nay, xu hướng của nông dân là hạ thấp trụ xuống, nghĩa là sau khi chôn trụ xong còn cao trung bình từ 1,6 m đến 1,8 m, còn đường kính sử dụng chỉ còn khoảng 15 cm. Nguyên nhân làm nông dân hạ thấp trụ và tận dụng cây có đường kính nhỏ là vì các loại gỗ tết hiếm và đắt, ngoài ra trụ cao khiến việc chăm sóc trở nên khó khăn hơn, tốn nhiều công hơn.
Trụ thấp có lợi:  giảm được tiền đầu tư ban đầu, cành thanh long mau lên đến đầu trụ, chăm sóc và thu hoạch dễ hơn. Qua nhiều năm cắt tỉa các cành nhánh chồng chất trên đầu trụ sẽ làm cây cao dần, việc dùng trụ thấp sẽ hãm bớt sự cao dần lên của cây. Nhưng hễ trụ thấp quá thì nhánh thanh long sẽ rũ xuống đất vừa tốn công cắt tỉa vừa ít quả do cành ngắn hơn. Việc trồng cây trụ cần tiến hành sớm, có thể trước thời vụ trồng một tháng. Sau khi lấp đất cây trụ phải thẳng đứng, không lệch ngọn. Trên đầu mỗi trụ người ta đóng một cái khung bằng gỗ, một thanh ngang hay một vòng tròn,… cho thanh long dễ bám để khi đi tới đầu trụ cành thanh long sẽ rũ đầu xuống nên trông toàn tán cây có dạng một cái dù (bay dạng hình nấm).
4. Chuẩn bị hom giống
Thanh long có thể trồng bằng hột nhưng lâu có trái. Hiện nay, chủ yếu các nhà vườn trồng bằng hom (cắm cành). Hàng năm, việc tỉa cành tạo nên nguồn hom giống dồi dào, nhưng để cành phát triển tốt thì cần chọn những cành có tiêu chuẩn sau:
- Tuổi cành trung bình từ l - 2 năm tuổi trở lên, cành non không tốt.
- Chiều dài hom tốt nhất là từ 50 cm đến 70 cm.
- Hom mập, có màu xanh đậm.
- Hom không có khuyết tật, sạch sâu bệnh.
- Các mắt mang chùm gai phải tốt, mẩy, khả năng nẩy chồi (mụt) tốt.
Sau khi chọn hom xong, hom được dựng nơi thoáng mát, trên nền đất khô ráo, trong vòng 10 - 15 ngày hom bắt đầu nhú rễ thì đem trồng.
5. Thời vụ trồng
Thanh long thường được trồng vào tháng 10 - 11 dương lịch, ưu điểm của vụ này là:
- Nguồn hom giống dồi dào do trùng vào lúc tỉa cành.
- Lợi dụng được ẩm độ vào cuối mùa mưa.
- Ở các vùng đất thấp thì mùa này tránh được nguy cơ ngập úng.
Tuy nhiên, trồng mùa này có nhược điểm là cây chưa lớn đủ để có thể chống chịu nắng hạn, vì vậy cần chú ý tưới nước và giữ ẩm cho cây trong mùa nắng tới.
Ở những vùng thiếu nước tưới thì nên trồng vào đầu mùa mưa (tháng 4 - 5), xuống giống trong thời gian này sẽ gặp khó khăn vì là mùa thanh long ra hoa nên thiếu hom, phải có kế hoạch giâm hom từ trước.
6. Bón lót và đặt hom
Trên đất cao, trước khi đặt hom người ta làm âm xuống một khoảng quanh trụ có cạnh độ l,0 - l,5m, sâu 20 - 30 cm, rồi bón lót độ 10 kg phân chuồng + 0,5 kg Super lân.
Trên đất thấp phải lên mô trước khi trồng, xới đất và rải phân quanh mô.
- Đặt từ 3 - 4 hom quanh cây chống (trụ), cần chú ý:
+ Đặt hom cạn 0 - 5 cm để tránh thối gốc do đất ẩm.
+ Đặt áp phần phẳng của hom vào mé trụ để sau này hom ra rễ và bám nhanh vào trụ.
Cột hom vào trụ để gió khỏi làm lung lay lúc đầu vì rễ trên không chưa phát triển để bám vào cây trụ. Sau khi đặt hom, ở các vùng đất cao hễ đất khô và hết mưa thì cần tủ gốc để giữ ẩm,…
7. Bón phân thúc hàng năm:
-  Để cây ra hoa tụ nhiên: hiện chưa có thí nghiệm về bón phân cho thanh long trên các loại đất khác nhau. Lượng phân bón thay đổi theo tính chất đất, theo tuổi của cây và theo sản lượng mà cây đã cho. Qua điều tra thu thập số liệu ở các vườn có năng suất cao cho thấy có hai kiểu bón phân điển hình:
- Bón theo đợt: 3 lần/năm chiếm 70% số hộ phỏng vấn.
- Bón rải ra nhiều lần trong năm chiếm 30% số hộ còn lại.
Riêng phân chuồng thì chỉ cần bón 1 lần sau tỉa cành (tháng 11) và đây là loại phân quan trọng nhất là đối với các loại đất thiếu chất hữu cơ, giữ ẩm kém. Ở năm đầu phân hóa học (chẳng hạn Urê) được hòa vào nước và tưới hoặc phun lên cả thân cành để thúc cành mau leo lên đầu trụ. Các năm sau rải phân quanh gốc rồi tưới nhẹ cho phân hòa tan và ngấm xuống đất.
Giai đoạn kiến thiết cơ bản: chỉ kéo dài từ 1 đến 2 năm. Tổng lượng phân bón thúc thường được áp dụng là 30 kg Urê + 20 kg NPK (16-16-8)/100 trụ/năm.
Chia ra: sau trồng 15 - 20 ngày thúc 1/3 lượng phân: tháng 3 hoặc tháng 4 năm sau thúc 113 lượng phân; tháng 6 - 7 thúc nốt 1/3 lượng phân còn lại, cuối năm thứ 1 bắt đầu có trái bói.
Một số nhà vườn đã chia phân bón làm nhiều lần như vậy nâng cao được hiệu suất sử dụng phân của cây.
Ngoài ra cần bổ sung các phân vi lượng bằng cách phun hoặc tưới các chế phẩm như HVP 301, Mymix... như vậy cây con sẽ tăng trưởng thật mạnh ở giai đoạn đầu và sẽ cho quả sớm. Lượng phân thực sự cây sử dụng ở giai đoạn này rất khó tính vì phân bón cho cây trồng xen thanh long cũng đã sử dụng được một phần.
Giai đoạn kinh doanh: năm thứ 3 trở đi năng suất đã khá ổn định cần chú trọng tới kali, một loại phân cần thiết để làm quả ngon ngọt và chắc hơn. Lượng phân trung bình cho mỗi trụ như sau: phân chuồng 15 - 50 kg; phân lân (Super lân) 0,5 kg; Urê  0,5 kg; NPK (16-16-8) : 1,5 kg; KCl : 0,5 kg; chia phân ra làm 3 lần:
+ Lần thứ 1: sau khi tỉa cành (tháng 10 - 11) gồm: tất cả phân chuồng + tất cả lân + 1/3 Urê. Mục đích là để thúc các đợt lộc cành đầu tiên ra nhanh để nó mau trưởng thành làm cơ sở cho việc ra quả vào mùa tới.
+ Lần thứ 2: cách lần thứ l độ 40 ngày gồm 1/3 Urê + 1/5 NPK + 1/2 KCl để thúc đợt cành thứ 2.
+ Lần thứ 3: vào tháng 3 gồm 1/3 Urê + 2/5 NPK + 1/2 KCl thúc đợt cành cuối cùng và làm đợt cành thứ 1 phân hóa mầm hoa.
Sau ba lần thúc thì bụi thanh long có 3 - 4 lớp cành và đợt nụ đầu tiên bắt đầu xuất hiện, rồi lớp nụ này kế tiếp lớp nụ hoa, lớp quả này kế tiếp lớp quả kia, người làm vườn quan sát sự ra hoa và năng suất mà bón bổ sung từng đợt NPK cho hết 2/5 còn lại bằng cách chia nhỏ lượng phân này rải làm nhiều đợt trong thời gian cây nuôi quả. Ngoài ra, còn bổ sung các chất vi lượng bằng cách phun Mymix hoặc HVP,...
- Bón phân cho các vườn thanh long được xử lý ra hoa bằng đèn
Do kích thích cây ra hoa và nuôi quả nhiều đợt trong năm và để cây bớt kiệt sức nên lượng phân bón và số lần bón đã phải tăng lên. Lượng phân bón trong năm cho mỗi trụ như sau:
http://www.phucduyenthinh.com/vn/hinh/ttl22.jpg+ Phân chuồng hoai: từ 15 kg đến 50 kg.
+ Phân NPK (16-16-8 hoặc 20-20-15) từ 1 kg tới 3 kg tùy tuổi cây và sản lượng mà cây đã cho mùa trước.
+ Phân KCl từ 0,1 kg tới 0,2 kg (bón lúc nuôi quả).
Vườn Thanh Long đang cho trái
 
Ngoài ra quan sát cây để bổ sung phân đạm (Urê) từ 0,1 kg tới 0,2 kg (lúc ra chồi) và 0,1 kg tới 0,2 kg Super lân (trước lúc thắp đèn), phun kích phát tố Thiên Nông, Gibberelin và phân vi lượng. Sự chia phân bón làm nhiều lần sẽ làm phân ít bị rửa trôi, cây sử dụng hữu hiệu hơn... nhưng tốn nhiều công hơn.
8. Tưới nước:
Mặc dù thanh long chịu hạn giỏi, nhưng nắng hạn kéo dài sẽ làm cây mất sức và làm giảm năng suất nhiều. Biểu hiện của sự thiếu nước là:
- Cành mới hình thành ít và phát triển rất chậm.
- Cành bị teo lại và chuyển sang màu vàng.
- Tỉ lệ rụng hoa ở các đợt hoa đầu tiên cao >80%.
- Quả nhỏ.
Tùy theo ẩm độ đất... mà nhịp độ tưới thay đổi từ 3 - 7 ngày/lần. Trồng thanh long có xử lý ra hoa bằng đèn đều đã phải chủ động tưới nước vào mùa nắng, thường tưới vào buổi sáng theo nhịp độ nêu trên.
Trên các chân đất phèn do đất thấp, thủy cấp gần mặt đất nên việc tưới nước ít được chú ý hơn, một số hộ đã dùng bơm tưới bổ sung thấy có kết quả, trừ khi nước phèn có độ pH quá thấp. Cũng cần lưu ý là các cây thuộc họ xương rồng chịu được nắng hạn giỏi nhưng lại khá mẫn cảm với độ mặn, nên các vùng mùa nắng bị nhiễm mặn cần chú ý điều này.
9. Tỉa cành
Năm thứ 2 tỉa nhẹ khi cần để tạo tán hình cây dù. Tới cuối năm thứ 3 mỗi trụ có độ 100 cành, với lượng cành này phân bố trên đầu trụ dày đặc. Một số cành già đã cho trái trong những năm trước nếu giữ lại sẽ không cho trái hoặc cho trái nhỏ. Sự tỉa cành làm thông thoáng tán cây và giúp cây tập trung dinh dưỡng nuôi cành mới. Sau tỉa, cành non đâm ra mạnh hơn. Có ba loại cắt tỉa:
- Tỉa đầu: thực hiện sau thu hoạch hoặc trước đợt thu quả cuối cùng. Cắt cùng một lúc tất cả các cành già, các cành ốm yếu, khuyết tật, nằm khuất bên trong tán. Số cành giữ lại trên đầu trụ độ 50 cành. Dùng liềm hoặc dao chặt 3/4 chiều dài của toàn bộ các cành già phía dưới, các tược non sẽ nảy ra từ phần gốc cành được giữ lại.
Ưu điểm: Dễ làm, đỡ tốn công. Khuyết điểm: qua nhiều năm các lớp cành chồng chất lên nhau nên bụi thanh long bị đôn lên cao.
- Tỉa lựa. lựa các cành cần tỉa rồi dùng liềm cán dài giựt đứt khỏi cây. Ưu điểm: tạo được sự thông thoáng, qua nhiều năm trụ không đôn lên cao. Giữ được sự cân đối giữa các cành của tán cây. Khuyết điểm: tốn công.
- Tỉa sửa cành: để kiểm soát số cành con trên cành mẹ (cành sừng trâu). Yêu cầu:
+ Chỉ giữ lại 1 - 3 cành con/cành mẹ.
+ Các cành con trên cành mẹ xa nhau, phân bố đều để tránh tán lệch.
+ Giữ lại các cành mập, khỏe.
+ Tỉa bỏ những cành mọc lòa xòa ra lối đi.
Do nhu cầu tạo quả trái vụ, một số cành già trước đây thường bị tỉa đi, nay được giữ lại để tạo cảm ứng ra hoa bằng thắp đèn.
10. Làm cỏ: trước mỗi đợt bón phân trên đất phèn nơi đất ẩm thường xuyên, có rất nhiều loại cỏ có rất khó trị như cỏ tranh, cỏ ống, cỏ Paspalum,... vì vậy muốn bớt cỏ cần áp dụng biện pháp phòng trừ tổng hợp như cày bừa kỹ vào mùa nắng trước khi trồng, xen canh, dùng thuốc trừ cỏ kết hợp với làm cỏ thủ công sớm,...
11. Tủ gốc:
          Vừa trừ cỏ vừa giữ ẩm, nhất là ở các vùng có mùa khô kéo dài và thiếu nước tưới. Dùng rơm, cỏ khô, xơ dừa,... để tủ. Có thể tủ quanh gốc hay tủ toàn bộ liếp. Ở những vùng có cỏ nhiều, giá nhân công đắt nên áp dụng phủ bạt như trồng dưa hấu và trồng thơm đã làm.
12. Xử lý ra hoa:
          Đã có một số thí nghiệm cảm ứng thanh long ra hoa bằng hóa chất (KNO3 và một số chất khác) bước đầu đã có kết quả. Hoa ra sớm hơn so với các liếp trồng thanh long khác trong vùng từ 1 - 1,5 tháng. Tuy nhiên, chưa đạt được cảm ứng ra hoa đồng loạt và mạnh như ở cây xoài, số hoa ra còn ít và rải rác. Thanh long có quả sớm giá bán cao gấp 5 - 8 lần so với giá lúc rộ. Trong vài năm gần đây, nhiều người trồng thanh long đã thắp đèn để thúc thanh long ra hoa trái vụ. Sự thắp đèn dựa trên cơ sở thanh long là cây ngày dài, dùng ánh sáng đèn để cắt đêm dài. Đã có một số điều tra và thí nghiệm về vấn đề này kết quả như sau:
- Nguồn điện thắp sáng: có thể sử dụng lưới điện quốc gia, hoặc máy phát điện riêng. Dùng điện thuộc lưới điện quốc gia có một số bấp bênh như điện áp không ổn định, đôi lúc bị cúp điện làm hỏng kế hoạch, vì muốn cắt đêm dài cần phải thắp sáng liên tục một số giờ nhất định nào đó.
- Loại bóng đèn và công suất: dùng bóng đèn tròn, từ 75 - 100 watt, hiện nay đa số các vườn dùng bóng 75 watt. Dùng đèn ống hiệu quả kém hơn vì cây hấp thu ánh sáng đỏ (red light) và đỏ xa (far red light). Dùng bóng 60 watt không đủ độ sáng, số quả ra ít. Dùng bóng 200 watt số quả không tăng hơn bao nhiêu mà lại tốn điện.
-  Cách treo bóng: bóng được treo giữa 2 trụ làm thành hàng, cách mặt đất từ 0,7 m tới 1,2 m. Nên câu điện để có thể thắp sáng luân phiên cho các phía của cây được hưởng ánh sáng đồng đều. Cũng có một số vườn câu một bóng điện ở giữa mỗi 4 trụ.
- Thời gian thắp sáng:  thời gian thắp đèn tốt nhất 4 giờ liên tục 10 - 15 đêm mới gây được cảm ứng ra hoa. Vào tháng hai, một số vườn chỉ thắp có 7 giờ/đêm và kéo dài chỉ từ 10 tới 12 đêm. Nhưng nếu xử lý đèn liên tục, mỗi tháng xử lý một lần thì năng suất sẽ thấp và bất ổn, 5 lần xử lý liên tục trong các tháng từ cuối tháng 9 đến đầu tháng 1 sẽ thu được tổng số 56 quả/trụ hay 26,3 kg/trụ/5 lần xử lý, bình quân chỉ đạt được 5,3 kg/trụ. Như vậy cần chú trọng nghiên cứu sự bón phân, nhịp độ xử lý để có hiệu quả kinh tế cao, tránh lãng phí điện.
Sau 4 - 7 ngày sau ngưng thắp đèn, nụ hoa sẽ xuất hiện. Cần khoảng 20 - 21 ngày cho hoa phát triển, 3 ngày để nở và thụ quả trong vườn, sau đó cần từ 25 đến 28 ngày/ để quả phát triển. Như vậy từ khi ra nụ tới khi thu hoạch mất độ 50 - 52 ngày. Khoảng thời gian này dài ngắn chút ít tùy vào điều kiện khí hậu nơi trồng. Đối với một số loài cây thuộc họ xương rồng, có loài phải mất tới 150 ngày để quả phát triển (23). Như vậy thời gian nuôi quả của thanh long ở nước ta khá ngắn.



BẢO VỆ THỰC VẬT

Nhìn chung thanh long tương đối ít bị sâu bệnh phá hoại như nhiều cây ăn quả khác.
1. Côn trùng
            Kiến: cắn, đục khoét làm hư hom giống và các cành thanh long non, cắn mất tai lá trên trái, gây tổn thương vỏ trái, đây là loại côn trùng dễ phòng trừ.
http://www.baophuyen.com.vn/Portals/0/2010/09/20/boxit100920.jpgĐể phòng trị dùng Basudin (Diazinon) 10H, Padan 4G, 10G trộn đều với cát 2/1000 rải đều quanh gốc hoặc những nơi làm tổ. Khi tấn công vào các ổ kiến thì dùng Bi 58, Diazinon,...
Bọ xít gây bệnh hại trên Thanh Long
 
Bọ xít: hại thanh long từ khi có nụ hoa đến khi trái hình thành, chúng  chích hút nhựa, để lại những vết chích rất nhỏ nhưng đến khi quả chín nơi các vết chích sẽ xuất hiện một chấm đen, mất giá trị xuất khẩu. Việc phòng trừ dùng Trebon, Applaud Mipc, Bassa... nồng độ 0,2%. Phun lên khu vườn có bọ xít xuất hiện.
Ruồi đục trái
 
http://www.bvtvhcm.gov.vn/images/technology/QTrinhCayTrong/KQua_RuoiDucTrai_S.jpgRuồi vàng hay ruồi trái cây (Dacus dorsalis): là đối tượng nguy hiểm đang được báo động hiện nay. Trưởng thành chích và đẻ trứng vào quả gây thoái hóa phần thịt quả và phần nhựa chảy ra ngoài vỏ làm quả thanh long bị hư, không xuất vườn được. Là đối tượng mới xuất hiện trên thanh long nhưng ruồi trái cây đã phá rất nhiều loại quả ở nước ta vì thế cần chú ý phòng trừ. Cần vệ sinh đồng ruộng như thu dọn và hủy các quả rụng, rải thuốc diệt nhộng dưới đất, đặt bả có chứa chất dẫn dụ trích từ cây é tía trộn với thuốc trừ sâu để diệt ruồi. Hiện nay, các thuốc như Ruvacon 90L và Vizubon D đã có chứa sẵn chất dẫn dụ là Metyl eugenol 75% nên tiện cho nhà vườn hơn.

2. Bệnh
Bệnh thối đầu cành: ngọn cành thanh long chuyển màu vàng, rồi mềm, sau đó thối. Cây tăng trưởng chậm, số cành giảm hẳn. Bệnh hay xảy ra vào cuối mùa nắng. Bệnh xảy ra không những trên đất phèn (đất thấp) mà còn cả trên đất cao nữa. Nguyên nhân chính là do nấm Alternaria sp. gây ra. Trị bằng cách phun Rovral 2 lần liên tiếp cách nhau 1 tuần.
Bệnh đốm nâu trên cành: thân cành thanh long có những đốm tròn như mắt của màu nâu. Vết bệnh nằm rải rác hoặc tập trung, thường kéo dài thành từng vệt dọc theo thân cành. Có nhiều vết acervulus tròn đen năm rải rác. Tác nhân là nấm Gloeosporium agaves. Thuộc họ Nectrioidaceae, Bộ Melanconialea, Lớp Deuteromycetes.
Bệnh nám cành: trên thân cành có một lớp màng mỏng màu xám tro, nhám. Tác nhân là nấm Macssonina agaves Syd và Sphaceloma sp. Họ Nectrioidaceae, Bộ Melanconiales, Lớp Deuteromycetes. Biện pháp phòng trị chung cho các bệnh thanh long là vệ sinh đồng ruộng, chống úng và chống hạn cho cây. Khi tới mức độ phải trị thì dùng thuốc Rovral, hoặc Anvil 5sc (30 - 100 g a.i./ha) phối hợp với Topas (10 - 50 g a.i./ha). Ngoài sâu bệnh kể trên thanh long còn bị dơi, chim, chuột phá hoại quả nữa.
3. Các hiện tượng sinh lý:
Hiện tượng rụng nụ: xuất hiện khi số nụ trên cành nhiều. Sau khi nụ xuất hiện 5 - 7 ngày thì nụ không phát triển nữa, vàng rồi rụng. Tỷ lệ rụng từ 10% đến 20%. Cây tự quân bình sinh lý để nuôi quả còn lại trên cây. Để hạn chế sự rụng quả sinh lý cần bón phân tưới nước đầy đủ và quân bình.
Hiện tượng nứt vỏ trái: do thời tiết, trời hạn ở giai đoạn vỏ quả phát triển, sau đó mưa nhiều hoặc tưới nhiều vào lúc ruột qua phát triển nên quả nứt. Mặt khác, do nhà vườn treo quả lâu đợi dịp có giá mới bán. Để hạn chế nên kiểm soát độ ẩm đất, không để vườn khô hạn trong thời kỳ cây nuôi quả.



THU HOẠCH, SƠ CHẾ VÀ NĂNG SUẤT
1.     Thu hoạch:
 Sau khi trái chuyển màu từ xanh qua đỏ được độ 3 ngày thì dùng liềm hay dao cắt. Khi cắt đi dọc theo hàng, lựa quả đúng tiêu chuẩn cắt rồi xếp vào một cái gùi. Khi đầy gùi thì chuyển ra đầu hàng người khác cho vào cần xé xếp theo từng lớp có lót giấy, rơm hoặc lá chuối, sau đó vận chuyển đến nơi thu mua.
2.     Tiêu chuẩn trái xuất khẩu:
Trái có trọng lượng lớn, chuyển màu đỏ được 2 - 3 ngày, ngoại hình đẹp, vỏ không bị trầy sướt, các tai lá trên quả còn xanh tươi, không có vết chích của côn trùng, không có vết bệnh và không có bất cứ tồn dư thuốc hóa học nào trên ngưỡng cho phép để bảo đảm sức khỏe cho người tiêu dùng.
Thường được thu hái trễ hơn nên quả nặng, to hơn, và ngọt hơn thích hợp với thị hiếu người tiêu dùng trong nước. Việc thu hoạch tiến hành giống như khi thu xuất khẩu nhưng không cần xử lý đóng thùng, chỉ cho vào cần xé, may miệng lại rồi chở đến nơi tiêu thụ.
3. Sơ chế xuất khẩu

- Phân loại quả theo trọng lượng, có thể sử dụng thang phân loại do Phân Viện Công nghệ Sau Thu Hoạch dự thảo theo đó quả thanh long được phân làm 4 loại: loại l trên 500 g, loại 2 từ 380 g đến 500 g, loại 3 từ 300 g đến 380 g và loại 4 nhỏ hơn 300 g. Theo cách phân loại này thì các loại quả từ hạng 3 trở lên đều có thể xuất khẩu được.
Phân loại Thanh Long
 
- Xử lý trừ nấm: quả được xếp ra sàn tối đa là 5 lớp, không nên chất đống, sau đó quả được xử lý bằng cách nhúng quả vào thau đựng nước thuốc trừ nấm (chẳng hạn Topsin M . . .), xếp quả qua một bên, quạt gió cho khô tối thiểu 15 phút, rồi đóng thùng.
- Đóng thùng: thùng carton đựng thanh long có kích thước 46 x 31 x 13 cm, làm bằng giấy carton gồm 3 lớp dày 5 mm, thùng có 10 lỗ thông gió kích thước 2,5 cm x 4 cm, bố trí đối xứng. Bên trong thùng có vách ngăn cho từng quả một. Trọng lượng thùng là 750 g. Quả được bọc bằng bao PE có 10 lỗ thông gió đường kính là 5mm hay tết hơn nên bọc bằng lưới Polystyren, như vậy sẽ tránh được trầy sướt khi chuyên chở. Trọng lượng tịnh (quả) là 5 - 5,2 kg.
- Tồn trữ, chuyên chở: do quả thanh long dễ hư, khi xuất khẩu cần chuyên chở nhanh bằng tàu lạnh.
Khi chuyên chở xa bằng tàu thì các thùng thanh long phải làm lạnh trước ở nhiệt độ 8oC Sau đó cho vào container giữ ở nhiệt độ 5oC, ẩm độ không khí từ 85% đến 90%, có ván lót để bảo đảm thông gió.
Thị trường tiêu thụ hiện nay là Taiwan, Singapore, Hongkong, Nhật Bản,... và vài nước Âu châu mua với số lượng ít. Vườn chăm sóc tốt có khoảng 70 - 80% số trái đạt tiêu chuẩn xuất khẩu, giá xuất khẩu gấp độ 1,5 lần giá nội địa.
4. Năng suất
Sau một năm trồng thì thanh long bắt đầu cho trái bói, các năm thứ 3, 4, 5 là những năm có năng suất cao. Từ năm thứ 6 trở đi năng suất bắt đầu giảm từ từ. Một cách tổng quát trong điều kiện thanh long ra hoa tự nhiên, năm thứ l năng suất độ 3 kg quả/trụ, năm thứ 2: 10 - 15 kg/trụ, năm thứ 3: 30 kg/trụ, năm thứ tư 40 - 45 kg/trụ, sau đó giảm từ từ tới năm thứ 12 còn độ 20 - 25 kg/trụ. Việc chăm bón tốt, thời tiết thuận lợi sẽ làm năng suất cao và ổn định nhiều năm.



KẾT LUẬN
Thanh long đã trở thành cây xóa đói giảm nghèo, từng bước làm giàu cho nông dân và giờ đây, thanh long đang là một trong bảy loại trái cây xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam. Tuy nhiên phía sau sắc đỏ rực rở của trái thanh long là những mừng tủi đáng lo ngại như giá cả thị trường, thời tiết, dịch bệnh. Trong các yếu tố đó phải nói đến là sâu bệnh hại trên cây thanh long.
 Ngoài ra trong việc trồng thanh long đạt năng suất cao, ta cần quan tâm đến các yếu tố kỹ thuật như đất đai, phân bón, khỏang cách trồng, quản lý dịch hại…, là rất cần thiết.Những yếu tố này luôn quyết định đến hiệu quả kinh tế của nhà vườn.
  Vì vậy, khi canh tác cây thanh long chúng ta cần phải quan tâm và áp dụng đến khoa học kỹ thuật để mang lại hiệu quả cao nhất.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Mai Văn Quyền, Thái Văn Trường. 1997. ảnh hưởng của phân bón đến năng suất thanh long. Bài báo cáo tại hội thảo cây thanh long tại Long An.
Nguyễn Đăng Nghĩa. 1997. Những định hướng và cơ sở khoa học của việc nghiên cứu, áp dụng các biện pháp kỹ thuật nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế của cây thanh long. Bài báo cáo tại hội thảo về cây thanh long tại Bình Thuận.
Nguyễn Minh Châu 1997. Sử dụng phân bôn cho một số cây ăn trái, trong Nông Nghiệp –tài nguyên đất và sử dụng phân bôn. NXB Trẻ TP. Hồ Chí Minh.
Nguyễn Trịnh Nhất Hằng. 1997. Hiện trạng sản xuất thanh long ở một số tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long. Bài báo cáo tại hội thảo về cây thanh long tại Bình Thuận
       Theo www.humixvn.com

IPM TRÊN CÂY RAU

0 nhận xét


MỞ ĐẦU

Nhiều thập niên qua, nông dân nước ta đã gieo trồng phổ biến nhiều loại giống lúa kháng sâu, bệnh có năng suất cao, gần đây lại có những loại giống cây trồng trong đó có giống rau màu nhập nội có nhiều tính năng tốt, năng suất cao, và trong đó có những loại được gọi là Cây chuyển gene, có những đặc tính kháng lại một số sâu bệnh chủ yếu, tuy nhiên trong lĩnh vực này cần phải có tổ chức thẩm định đánh giá hiệu quả và tính an toàn của nó.
Để diệt trừ sâu bệnh trên rau đạt hiệu quả, chúng ta nên áp dụng các biện pháp phòng trừ sâu bệnh tổng hợp hay còn gọi là IPM. Biện pháp phòng trừ sâu bệnh tổng hợp gồm kết hợp bốn biện pháp để giảm thiểu sâu hại đến mật độ thấp nhất, bao gồm biện pháp canh tác, biện pháp thủ công, biện pháp sinh học và biện pháp hóa học.
Trong quá trình canh tác rau, nhiều bà con nông dân vẫn có thói quen sử dụng thuốc bảo vệ thực vật phun cho rau mỗi khi có sâu bệnh. Tuy nhiên, khi sử dụng thuốc trừ sâu bệnh không phải ai cũng dùng đúng cách. Do vậy, không những không diệt trừ được sâu bệnh mà còn để lại dư  lượng thuốc bảo vệ thực vật trên rau ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng, môi trường và thiên địch.
Vấn đề đặt ra là hiện nay sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sao cho an toàn và hiễu quả, cần đưa các phương pháp canh tác tiến bộ của các nơi trên thế giới, cũng như ở Việt Nam để cho đại đa số bà con nông dân chấp nhận và hưởng ứng làm theo.
Từ 1992 đến nay, tổ chức IRRI đã phối hợp với Việt Nam thực hiện nhiều cuộc hội thảo, tập huấn, trình diễn những biện pháp canh tác tiến bộ dựa theo quy luật cân bằng sinh thái trong đồng ruộng cũng như trong tự nhiên, tổ chức FAO cũng co những chương trình huấn luyện nhằm cải tiến kỹ thuật canh tác trên cơ sở giảm thiểu tối đa việc sử dụng thuốc hóa học, đặc biệt là thuốc trừ sâu, bằng mọi phương tiện thông tin, bằng nhiều cách chuyển giao kỹ thuật bảo vệ thực vật đến tận nông dân.


CÁC BIỆN PHÁP IPM TRÊN RAU
1.     Biện pháp canh tác
1.1   Biện pháp làm đất
 Bước đầu tiên trong biện pháp canh tác đó là chọn đất trồng. Đa phần các cây rau thích hợp trồng ở đất có độ pH từ 5 – 7, có khả năng giữ ẩm và thoát nước tốt.

 Sau đó, hành làm đất tơi xốp và phơi ải đất. Mục đích của việc phơi ải, giúp cho vi sinh vật hảo khí trong đất hoạt động tốt, làm cho đất tơi xốp, thông thoáng và cây dễ hấp thu các chất dinh dưỡng có trong đất. Ngoài ra, phơi ải đất  còn có tác dụng diệt một số mầm bệnh, cỏ dại còn tồn dư trong đất ở vụ trước. Chính vì vậy, hạn chế sử dụng thuốc hóa học về sau.
Làm đất thật kỹ khi trồng rau
 
 

Tùy thuộc loại rau chọn trồng và điều kiện của từng hộ gia đình mà có thời gian phơi ải đất dài hoặc ngắn nhưng ít nhất thời gian phơi ải phải đạt từ 5 - 7  ngày.
1.2   Trồng luân canh, xen canh
Tùy từng mùa vụ mà chúng ta chọn loại rau trồng cho thích hợp. Để hạn chế sâu bệnh, trước khi trồng chúng ta phải chọn giống rau có nguồn gốc rõ ràng và sạch bệnh. Áp dụng biện pháp luân canh với cây khác họ, tốt nhất là cây lúa nước.
Tuy nhiên nhiều hộ gia đình không có điều kiện để luân canh, chúng ta có thể trồng xen canh với cây khác họ cũng có tác dụng làm gián đoạn nguồn thức ăn và sua đuổi sâu hại. Ví dụ trồng cà chua xen với cây rau thập tự như cải bắp, cải thảo, súp lơ…vv. Mùi cây cà chua có tác dụng xua đuổi sâu tơ hại trên cây rau thập tự. Chính vì vậy, giảm được việc dùng thuốc hóa học trên những cây rau họ thập tự này.
1.3   Bẫy cây trồng
Ngoài biện pháp luân canh, xen canh, có thể tiến hành bẫy cây trồng để dẫn dụ sâu hại hoặc sua đuổi sâu hại. Ví dụ, chúng ta có thể trồng cây hoa hướng dương trên đầu các bờ ruộng rau, để thu hút sâu khoang đến đẻ trứng. Chúng ta phun diệt trừ chúng trên các cây này dễ hơn rất nhiều trên cây rau.
Trong quá trình chăm sóc rau chúng ta bón phân và tưới nước hợp lý. Tùy thuộc loại cây và thời gian sinh trưởng mà áp dụng các phương pháp tưới nước khác nhau: tưới phun lên cây, tưới rãnh, tưới nhỏ giọt, tưới đủ ẩm không đọng nước... giúp rau sinh trưởng phát triển tốt và hạn chế được sâu bệnh hại trên rau.
Khi trồng cây con ra ngoài đồng ruộng, cần trồng cây khỏe mạnh, không bị sâu bệnh hại, loại bỏ cây yếu, chết.  
2.     Biện pháp thủ công
Trong quá trình chăm sóc chúng ta thường xuyên vệ sinh đồng ruộng, ngắt những lá già, lá bị sâu bệnh, cây bị bệnh và các tàm dư thực vật, thu gom để vào một khu vực sau đó mang đi tiêu hủy.
Ngắt bỏ những lá bị úng
 

 

Đối với đặc tính của một số sâu, như sâu tơ đẻ trứng và hại mặt dưới của lá, sâu xanh bướm trắng đẻ trứng và hại ở mặt trên của lá..vv.. Các đối tượng sâu này , chúng ta cần thường xuyên kiểm tra đồng ruộng để ngắt bỏ ổ trứng mới nở và giết nhộng của chúng, hạn chế việc sử dụng thuốc hoá học về sau..

 Ngoài ra, bà con có thể sử dụng bẫy dính màu vàng hoặc màu xanh để bẫy một số con trưởng thành có cánh như rệp, ruồi đục lá, đục quả, bọ nhảy…hại nhiều loại cây trồng. Những loại bẫy này chi phí thấp, có thể tận dụng các vật liệu tái chế sẵn có để làm bẫy.
Bẫy dính màu vàng
 
 

Bẫy nên đặt ở độ cao 40 – 60 cm tính từ bệ cây là thích họp nhất.

3.  Biện pháp sinh học
Biện pháp sinh học phòng trừ sâu bệnh hại rau là lợi dụng các thiên địch để tiêu diệt sâu hại trên đồng ruộng.
Bảo vệ thiên địch của sâu hại rau: các loài bọ rua ăn rệp ăn sâu hại; các loài ong ký sinh trứng, sâu non, nhộng của sâu hại; các loài kiến, nhện…ăn sâu hại; các loài nấm đối kháng: Trichoderma, Beauveria...Để  bảo vệ được các loài có ích này, không nên sử dụng sử dụng thuốc hóa học.
Bên cạnh đó, bà con có thể sử dụng bẫy freromol treo trên ruộng rau để thu hút con trưởng thành cái đến các bẫy mà không giao phối được, không đẻ được trứng và không hình thành được sâu.
Feromol là hợp chất hóa học có hoạt tính sinh học rất cao, đóng vai trò quan trọng trong hoạt động sinh sản của các loài sâu hại. Bẫy feromol đặc biệt có hiệu quả đối với các loại sâu hại không thể phát hiện sớm bằng phương pháp thông thường, như sâu khoang, sâu xanh bướm trắng, sâu tơ, sâu keo da láng trên các loại rau, hoa, đậu, lạc, nho, bông.
Cách đặt bẫy feromol: Sử dụng lọ nhựa hoặc bát nhựa đã dùng một lần, có đường kính 18-22cm,  buộc mồi vào dây thép theo kiểu quang treo, sau đó đổ nước 1/3 thể tích bát có pha thêm một ít xà phòng, xà phòng có tác dụng  khi bướm bay vào bẫy, rơi  xuống nước, sẽ bị  bịt lỗ thở lại và chết rất nhanh.
Tùy từng loại rau mà chúng ta treo bẫy khác nhau. Đối với loại cây thấp như su hào, bắp cải, hành ... đặt bẫy ở vị trí cao hơn bề mặt tán cây trên ruộng chừng 20- 30cm. Đối với cây trồng như đậu leo, cà chua, dưa chuột... thì treo bẫy ở vị trí sát mặt giàn cây để tạo thuận lợi cho feromol lan tỏa rộng.


Các loại mồi feromol có hiệu quả  hấp dẫn sâu hại trong thời gian ít nhất là 21-24 ngày, tùy theo điều kiện thời tiết và theo từng vừng thì thay bả, tốt nhất thay mồi feromol mới theo định kỳ 20 ngày kể từ ngày sử dụng.
Cách đặt bẫy feromol cho các cây rau màu
 
 


Chú ý đặt bẫy liên tục từ khi trồng đến khi thu hoạch sản phẩm. Ngoài ra hàng ngày ta cần  thường xuyên kiển tra các bẫy để vớt những con bướm đã chết và bổ sung thêm nước xà phòng khi cần thiết.
4. Biện pháp hóa học
Trước khi sử dụng thuốc hóa học để phòng trừ sâu bệnh, chúng ta cần thường xuyên điều tra ruộng, để phát hiện sâu bệnh vượt qua ngưỡng gây hại kinh tế mà 3 biện pháp trên không điều hòa được, thì lúc đó chúng ta mới nên sử dụng thuốc phun, ưu tiên các loại thuốc sinh học, thuốc thảo mộc trước, nếu vẫn không diệu trừ được sâu bệnh thì mới sử dụng thuốc hóa học để phun.


- Cách điều tra sâu:
Tùy thuộc vào từng loại sâu bệnh mà chúng có cách điều tra khác nhau. Để biết được diễn biến mật độ sâu hại trên đồng ruộng, chúng ta điều tra theo định kỳ 5 - 7 ngày một lần, điều tra theo phương pháp 5 điểm chéo góc. Khi mật độ sâu hại trên cây từ 10% là chúng ta tiến hành phun thuốc.
Tiến hành điều tra sâu bệnh theo định kỳ 5-7 ngày/ 1 lần
Để phòng trị sâu xanh bướm trắng và sâu tơ chúng ta có thể sử dụng thuốc Elincol 12 ME; V-Bt; Proclaim, Xentari 35WDG, Pegasus 500SC, Amate 150EC….pha theo nồng độ khuyến cáo của nhà sản xuất.
Đối với loại sâu kháng thuốc nhanh như sâu tơ, sâu xanh nhện đỏ, cần sử dụng luân phiên các loại thuốc, thuốc có hiệu quả chúng ta không được sử dụng quá 2 lần.
Để đảm bảo an toàn, trước khi phun, cần kiểm tra dụng cụ phun, dụng cụ đo lường  nếu cần thiết. Đầu tiên, đổ 1/3 nước vào bình, mở nắp thuốc cần pha cho vào bình. Sau đó, tiến hành lắc bình phun, sao cho thuốc tan hết, đổ tiếp lượng nước đến vạch quy định, đậy nắp lại và tiến hành phun. Khi phun thuốc, cần phải phun theo nguyên tắc 4 đúng đó là: đúng thuốc, đúng nồng độ, đúng lúc và đúng cách.
- Cách điều tra bệnh:
Trước khi dùng thuốc hóa học phun phòng trị bệnh, TS. Nhung lưu ý cần phải điều tra mức độ bệnh hại, sau đó mới tiến hành phun. Khi điều tra số là trên cây bị mắc bệnh từ 5-10 % thì chúng ta mới tiến hành dùng thuốc để phun phòng trừ.
Khi cây bắt đầu bị bệnh chúng ta quan sát bằng các mắc thường gần như không phát hiện được. Chủ yếu chúng ta dựa vào sự biến đổi màu sắc lá trên cây rau để nhận biết vết bệnh. Đại đa số ban đầu các vết bệnh thường là các chấm nhỏ màu vàng hoặc nâu nhỏ, sau một thời gian các chấm hoặc vết bệnh lan dần to ra. Do vậy, bà con cần phải kiểm tra thường xuyên theo định kỳ 7 ngày một lần ở 5 điểm chéo góc trên đồng ruộng, để phát hiện bệnh sớm và đưa ra biện pháp phòng trị kịp.
Khi sử dụng thuốc hóa học để phun trên rau, chúng ta cần tuân thủ thời gian cách lý đối với từng loại thuốc để đảm bảo an toàn an toàn vệ sinh thực phẩm, khi mang đến tay người tiêu dùng.



KẾT LUẬN
Hiện nay việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật trên rau màu khá phổ biến trong nông dân. Do đó, mỗi năm ở nước ta có hàng ngàn người bị ngộ độc thực phẩm do rau gây ra.
Và hiện nay, việc áp dụng sản xuất rau an toàn trên cả nước đã được đẩy mạnh và có tác động tốt đến nông dân, tuy nhiên cần phải áp dụng một cách đồng loạt trên diện rộng, quy mô diện tích lớn, tạo áp lực cho sự cần thiết của việc thực hiện IPM đúng nghĩa trên rau.
Phải có chính sách khuyến khích người trồng rau cũng như đầu tư kinh phí cho công tác nghiên cứu khoa học về rau an toàn nhiều hơn.
 Quy trình phòng trừ tổng hợp vẫn chưa có được một quy trình chuẩn đễ áp dụng rộng rãi trong cả nứơc.
 Vấn đề IPM là vấn đề hợp lực của nhiều biện pháp, những năm qua có nơi chỉ xem vấn đề thuốc BVTV là quan trọng, tuy nhiên tình trạng sử dụng nguồn nước tưới, phân bón, kích thích tố …vẫn đang còn nhiều trong nông dân trồng rau, chính vì vậy cần quan tâm hơn nữa nhiều biện pháp phòng trừ cũng như áp dụng đúng kỹ thuật canh tác của IPM là rất cần thiết. Phòng trừ dịch hại bằng thuốc vi sinh vẫn chưa được áp dụng rộng rãi trong nông dân, các chế phẩm nầy cũng chưa đáp ứng thị hiếu của nhiều người.
 Thiếu quy chuẩn về rau an toàn, việc kiểm tra dư lượng thuốc và các độc chất khác có trong rau chưa được chặc chẽ, chưa giám sát và xử lý nghiêm việc sử dụng hoá chất trên rau. Giải quyết được những vấn đề trên là giải quyết được cơ bản IPM trên rau.
TÀI LIỆU THAM KHẢO


 
Tài Liệu Trực Tuyến © 2011 | Designed by Interline Cruises, in collaboration with Interline Discounts, Travel Tips and Movie Tickets